Ceftriaxon là kháng sinh họ cephalosporin thế hệ 3 phổ rộng dùng theo đường tiêm bắp hoặc tiêm, truyền tĩnh mạch. Lọ 250 mg, 500 mg, 1 g, 2 g, 10 g dạng bột để tiêm bắp hoặc tĩnh mạch, có ống dung môi kèm theo. Dung môi để tiêm bắp là dung dịch tiêm lidocain hydroclorid 1%. Dung môi tiêm tĩnh mạch là nước vô khuẩn để tiêm. Lọ 1 g và 2 g dạng bột để tiêm truyền. Pha trong dung dịch tiêm natri clorid 0,9%, dung dịch tiêm glucose 5% hoặc dung dịch tiêm glucose 10% [1].
Thời gian dùng thuốc sau khi pha tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất, thông thường dung dịch thuốc pha ra giữ được độ ổn định lý hóa trong vòng 6 giờ ở nhiệt độ phòng, hoặc 24 giờ ở nhiệt độ 2 – 80C. Dung dịch thuốc sẽ có màu từ vàng nhạt tới hổ phách, tùy thuộc vào nồng độ thuốc và độ dài thời gian bảo quản. Sự đổi màu của dung dịch trong khoảng khuyến cáo không ảnh hưởng đến hiệu quả và sự dung nạp của thuốc.
Tiêm bắp. Khi tiêm bắp, ceftriaxon loại 250mg hoặc 500mg được pha trong 2ml, ceftriaxon loại 1g được pha trong 3,5ml dung dịch chứa 1% lidocain hydrochlorid và được tiêm vào trong cơ bắp lớn của cơ thể. Không nên tiêm quá 1g thuốc tại một vị trí. Không bao giờ được tiêm tĩnh mạch dung dịch có lidocain [2].
Tiêm tĩnh mạch. Khi tiêm tĩnh mạch, ceftriaxon loại 250mg hoặc 500mg được pha trong 5ml, ceftriaxon loại 1g được pha trong 10ml nước vô trùng để tiêm. Nên tiêm tĩnh mạch trong 2–4 phút.
Truyền nhỏ giọt tĩnh mạch. Nên truyền trong ít nhất 30 phút. Để truyền tĩnh mạch, 2g ceftriaxon được pha trong 40ml một trong các dung dịch không có canxi sau đây: NaCl 0,9%, NaCl 0,45% + dextrose 2,5%, dextrose 5%, dextrose 10%, dextran 6% trong dextrose 5%, dịch truyền hydroxyl ethyl starch 6-10%, nước cất pha tiêm truyền. Dung dịch ceftriaxon không được trộn hoặc truyền chung đường với các dung dịch chứa kháng sinh khác hoặc những dung dịch không trong danh sách vừa liệt kê vì có thể xảy ra tương kỵ, gây nguy hiểm cho người bệnh.
Theo kết quả từ 2 nghiên cứu in vitro, một nghiên cứu sử dụng huyết tương người trưởng thành và một nghiên cứu sử dụng huyết tương lấy từ dây rốn của trẻ sơ sinh để nghiên cứu tương tác giữa ceftriaxon và canxi. Nồng độ ceftriaxon tiến hành thí nghiệm được sử dụng tăng dần cho tới khi đạt 1 mmol/L (vượt quá nồng độ đạt được trên in vivo khi truyền liều 2 gram ceftriaxon trong 30 phút), tương tự, nồng độ canxi cũng được sử dụng tăng dần tới khi đạt 12 mmol/L. Kết quả nồng độ ceftriaxon trong huyết tương đã giảm xuống cùng nồng độ canxi sử dụng ≥ 6mmol/L (với người lớn), và ≥ 4mmol/L với trẻ sơ sinh. Điều này phản ánh có phản ứng kết tủa giữa ceftriaxon và canxi.
Chính vì nguyên nhân đó, ceftriaxon được khuyến cáo không dùng đồng thời với các dung dịch truyền tĩnh mạch có chứa canxi như dung dịch Ringer hay dung dịch Hartmann, thậm chí khuyến cáo không được dùng đồng thời với dung dịch truyền liên tục có chứa canxi như nuôi ăn đường tĩnh mạch qua chạc ba. Kết tủa ceftriaxon – canxi có thể xuất hiện khi ceftriaxon được dùng đồng thời/hoặc trộn lẫn trong cùng một đường truyền tĩnh mạch với các dịch truyền này. Cũng chính vì nguyên nhân này, ceftriaxon được chống chỉ định dùng cho trẻ sơ sinh ≤ 28 ngày tuổi nếu cần điều trị bằng dung dịch truyền tĩnh mạch có chứa canxi, kể cả các dung dịch truyền liên tục như nuôi ăn đường tĩnh mạch. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân không phải trẻ sơ sinh, ceftriaxon và các dung dịch có chứa canxi có thể được dùng kế tiếp nhau nếu các đường truyền được rửa kỹ bằng một chất lỏng tương thích. Không có các báo cáo về tương tác giữa ceftriaxon dùng đường tĩnh mạch với các chế phẩm có chứa canxi dùng đường uống hoặc tương tác giữa ceftriaxon tiêm bắp và các chế phẩm có chứa canxi đường tĩnh mạch hoặc đường uống [2,3].
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2015). Dược thư Quốc Gia Việt Nam, Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Hà Nội, tr 371 – 374
2. F.Hofmann-La Roche Ltd., Thông tin sản phẩm Rocephin, số đăng ký VN-17036-13.
3. https://www.medscape.com/viewarticle/591089. Truy cập 07/11/2019